Anne Tóc Đỏ Dưới Chái Nhà Xanh

Chương 15: Vụ Rắc Rối Ở Trường Học



Thật là một ngày tuyệt vời!” Anne nói, hít một hơi sâu. “Chẳng phải chỉ cần được sống trong một ngày thế này thì đã tốt lắm sao? Mình thấy thương cho những người chưa được sinh ra vì đã bỏ lỡ mất nó. Họ có thể có những ngày đẹp, dĩ nhiên, nhưng không bao giờ có được ngày hôm nay. Và còn tuyệt hơn vì có một con đường đến trường đáng yêu thế này, đúng không?”

“Tốt hơn đi đường vòng nhiều; đường đó quá nóng và bụi bặm,” Diana nói một cách thực tế, ngó vào giỏ thức ăn trưa và tính nhẩm liệu chia ba chiếc bánh nướng mâm xôi hấp dẫn ngon lành trong đó ra cho mười bé gái thì mỗi đứa sẽ được mấy miếng.

Những bé gái ở trường Avonlea luôn chia sẻ bữa trưa với nhau, ai mà ăn ba cái bánh nướng mâm xôi một mình hoặc thậm chí chỉ chia với bạn thân nhất thôi thì cũng sẽ mãi mãi bị gán mác “xấu tính khủng khiếp”. Nhưng nếu chia đều bánh cho mười cô bé thì bạn chỉ còn đủ hưởng hương hoa thôi.

Con đường Anne và Diana đi học từng là một con đường đẹp. Anne nghĩ những buổi đi bộ đến trường hoặc về nhà cùng Diana không thể nào cải thiện hơn được, cho dù bằng trí tưởng tượng. Đi loanh quanh bằng đường chính sẽ rất kém lãng mạn; còn đi trên con đường Tình Nhân, hồ Liễu, thung lũng Tím và đường Bạch Dương thì lại lãng mạn hơn bất cứ thứ gì khác.

Đường Tình Nhân chạy xuyên qua vườn cây ăn trái ở Chái Nhà Xanh, trải dài lên rừng cho đến tận cuối nông trại nhà Cuthbert. Đó là con đường lùa bò về chuồng và đến mùa đông thì chở củi về nhà. Anne đã gọi nó là con đường Tinh Nhân khi con bé mới ở Chái Nhà Xanh chưa được tròn một tháng.

“Không phải vì từng có đôi tình nhân nào thật sự bước qua đó,” con bé giải thích cho bà Marilla, “mà vì Diana và con đã đọc một cuốn sách tuyệt diệu, trong đó có một con đường Tình Nhân. Nên chúng con cũng muốn có một con đường như thế. Mà đó cũng là một cái tên rất đẹp, bác có nghĩ vậy không? Quá lãng mạn! Chúng con có thể tưởng tượng những đôi tình nhân đang dạo bước trên đó. Con thích con đường vì ở đó, con có nói to những suy nghĩ của mình thì cũng không bị ai gọi là khùng”

Buổi sáng, Anne khởi hành một mình, đi theo đường Tình Nhân xuống tận con suối. Ở đây, Diana gặp con bé rồi hai đứa tiếp tục đi lên con đường dưới vòm lá phong dày đặc – “Phong thật là một loài cây thân thiện,” Anne nói, “chúng luôn xào xạc và thầm thì với ta” – cho đến khi tới cây cầu gỗ. Rồi chúng rời đường đi xuyên qua sân sau nhà ông Barry và qua hồ Liễu. Bên kia hồ Liễu là thung lũng Tím – một đốm xanh nhỏ trong bóng râm của khu rừng rộng lớn nhà ông Andrew Bell. “Dĩ nhiên hiện nay ở đó không có bông hoa tím nào,” Anne nói với bà Marilla, “nhưng Diana nói đến mùa xuân sẽ có cả triệu bông. Ôi, bác Marilla, bác có thể tưởng tượng mình nhìn thấy chúng không? Quả thực nó khiến con thấy nghẹt thở. Con đặt tên nơi đó là thung lũng Tím. Diana nói chưa bao giờ thấy con gặp khó khăn khi đặt những cái tên lạ lùng cho mọi nơi. Cũng tốt khi giỏi một thứ gì đó, phải không ạ? Nhưng Diana đã đặt tên cho đường Bạch Dương thông thường. Ai cũng có thể nghĩ ra một cái tên như vậy. Nhưng đường Bạch Dương là một trong những nơi đẹp nhất thế giới, bác Marilla ạ.”

Đúng vậy. Không chỉ Anne mà bất cứ ai khác cũng sẽ nghĩ thế khi rảo bước trên con đường này. Đây là một con đường nhỏ hẹp quanh co, uốn khúc chạy xuống ngọn đồi trải dài xuyên qua khu rừng nhà ông Bell, nơi ánh sáng xuyên qua những tán lá xanh biếc hoàn hảo như tâm một viên kim cương. Dọc hai bên đường là những cây bạch dương non thân trắng mảnh dẻ, cành lá yểu điệu; dương xỉ, hoa sao, hoa lan chuông dại và những bụi cây sương vàng trái đỏ tươi mọc sin sít; bầu không khí ở đó lúc nào cũng rộn ràng phấn khích, tiếng chim líu lo ríu rít, tiếng gió rừng thầm thì và cười đùa trong tán cây trên đầu. Thỉnh thoảng bạn có thể nhìn thấy một con thỏ nhảy qua đường nếu bạn chịu im lặng – một điều mà năm thì mười họa Anne và Diana mới thực hiện được. Dưới thung lũng, con đường mòn đổ ra đường chính rồi chạy thẳng lên đồi vân sam đến trường.

Trường Avonlea là một tòa nhà sơn trắng, mái hiên thấp và cửa sổ rộng, bên trong trang bị những chiếc bàn kiểu cũ có ngăn kéo chắc chắn thoải mái, mặt bàn khắc chi chít các chữ cái và ký hiệu của ba thế hệ học trò. Ngôi trường nằm cách xa đường cái, sau lưng là rừng linh sam mờ tối và con suối nơi sáng sáng bọn trẻ thường ngâm bình sữa của mình xuống để giữ lạnh và giữ được vị ngọt cho tới giờ trưa.

Bà Marilla nhìn Anne cất bước đến trường ngày mồng một tháng Chín với nhiều lo lắng thầm kín. Anne là một bé gái khá kì quặc. Nó có thể hòa nhập với những đứa trẻ khác bằng cách nào đây? Và có cái quái gì có thể giữ nó im tiếng suốt giờ học?

Tuy vậy, mọi chuyện diễn ra tốt đẹp hơn những gì bà lo sợ. Tối hôm đó Anne về nhà trong tâm trạng vô cùng phấn chấn.

“Con nghĩ con sẽ thích trường học ở đây.” Con bé thông báo. “Nhưng con không đánh giá cao thầy giáo đâu. Thầy ấy cứ vân vê ria mép suốt và nhìn chằm chằm Prissy Andrews. Prissy lớn rồi, bác biết mà. Chị ấy mười sáu rồi và đang học để năm sau thi vào Học viện Queen ở Charlottetown. Tillie Boulter bảo thầy chết mê chết mệt chị ấy. Chị ấy có nước da đẹp, mái tóc nâu lượn sóng và dáng vẻ thật thanh nhã. Chị ấy ngồi ở chiếc ghế dài cuối lớp và thầy cũng ngồi đó, hầu hết thời gian – để giảng bài cho chị, thầy nói vậy. Nhưng Ruby Gillis nói nó thấy thầy viết gì đó trên bảng của chị ấy và khi đọc nó thì Prissy mặt đỏ như gấc và khúc khích cười, Ruby Gillis nói nó không tin chuyện đó có gì liên quan đến bài học cả.”

“Anne Shirley, đừng để ta nghe thấy con nói kiểu đó về thầy giáo mình lần nữa,” bà Marilla nói nghiêm khắc. “Con không đến trường để chỉ trích thầy giáo. Ta nghĩ ông ấy có thể dạy con điều gì đó và nhiệm vụ của con là học. Và ta muốn con hiểu ngay rằng con đừng có về nhà kể này kể nọ về thầy nữa. Ta không khuyến khích điều đó. Ta hy vọng con sẽ ngoan ngoãn.”

“Thật ra con ngoan mà.” Anne nói thoải mái. “Cũng không tệ như bác tưởng tượng đâu. Con ngồi chung với Diana. Chỗ của tụi con ngay sát cửa sổ và tụi con có thể nhìn xuống Hồ Nước Lấp Lánh.Có rất nhiều bạn gái dễ thương trong trường và chúng con đã được chơi đùa hết sức vui vẻ vào giờ cơm trưa. Thật tuyệt khi có nhiều bạn để chơi. Nhưng dĩ nhiên con thích Diana nhất và sẽ luôn luôn như vậy. Con ngưỡng mộ Diana. Con bị các bạn khác bỏ xa tít tấp. Tất cả đều học sách lớp năm, con thì mới ở lớp bốn thôi. Con cảm thấy như một nỗi sỉ nhục. Nhưng không bạn nào có trí tưởng tượng như con, con đã sớm nhận ra điều đó. Hôm nay chúng con có tiết tập đọc, địa lý, lịch sử Canada và chính tả. Thầy Phillips nói khả năng đánh vần của con thật đáng xấu hổ và thầy ấy giơ bảng của con lên cho mọi người cùng thấy bị sửa chằng chịt hết cả. Con thấy mất mặt quá, bác Marilla à; thầy ấy có thể lịch sự hơn với một người lạ mà, con nghĩ vậy. Ruby Gillis cho con một trái táo còn Sophia Sloane cho con mượn một tấm thiệp hồng đáng yêu với dòng chữ “Mình có thể thăm nhà bạn không”. Sáng mai con sẽ trả lại bạn ấy. Tillie Boulter cho con đeo chuỗi hạt của bạn ấy suốt buổi chiều. Con có thể lấy vài hạt cườm trên cái gối cắm kim cũ trong gác xép để làm cho mình một cái nhẫn không ạ? Ôi, bác Marilla, Jane Andrews cho con biết Minnie MacPherson nói với bạn ấy rằng Minnie nghe Prissy Andrews nói với Sara Gillis là con có cái mũi rất dễ thương. Bác Marilla, đây là lời khen đầu tiên con nhận được trong đời và bác không thể tưởng tượng được chuyện đó khiến con có cảm giác lạ lùng như thế nào đâu. Bác Marilla, con có một cái mũi xinh thật không? Con biết bác sẽ nói con nghe sự thật.”

“Mũi của con cũng được,” Marilla nói ngắn gọn. Thật lòng thì bà nghĩ cái mũi của Anne xinh đáo để nhưng bà không hề có ý nói cho con bé nghe như vậy.

Đó là chuyện từ ba tuần trước và cho đến nay mọi việc vẫn suôn sẻ. Còn bây giờ, trong buổi sáng tháng Chín đẹp trời này, Anne và Diana đang tung tăng thả bộ xuống đường Bạch Dương, chúng là hai trong số những bé gái hạnh phúc nhất Avonlea.

“Mình đoán hôm nay Gilbert Blythe sẽ đi học,” Diana nói. “Cậu ấy đã đi thăm họ hàng ở New Brunswick cả mùa hè và chỉ mới vừa về tối thứ Bảy. Cậu ấy đẹp trai kinh khủng, Anne à. Và cậu ấy cứ chọc ghẹo lũ con gái mãi. Cậu ấy đúng là làm bọn mình sống khổ sống sở.”

Giọng Diana cho thấy rõ ràng cô bé thích được sống khổ sống sở hơn.

“Gilbert Blythe? Anne nói. “Chẳng phải tên cậu ta được viết trên tường hành lang cạnh tên Julia Bell và hai chữ “Chú ý” to tướng sao?”

“Phải,” Diana nói, hất đầu, “nhưng mình chắc chắn cậu ấy không thích Julia Bell lắm đâu. Mình nghe cậu ấy bảo cậu ấy được học bảng cửu chương là nhờ đám tàn nhang của Julia đấy.”

“Ôi, đừng nói về tàn nhang với mình,” Anne nài nỉ. “Chẳng thú vị gì khi mình có nhiều thế này. Nhưng mình vẫn nghĩ viết lên tường mấy cái lưu ý về con trai và con gái là chuyện ngu ngốc nhất trần đời. Mình muốn coi thử có ai dám viết tên mình lên đó với một đứa con trai không. Dĩ nhiên,” Anne vội vã thêm vào, “sẽ chẳng ai làm thế cả.”

Anne thở dài. Con bé không muốn tên mình bị viết lên đó. Nhưng cũng hơi xấu hổ khi biết rằng sẽ không có nguy cơ xảy ra chuyện đó.

“Nói nhảm,” Diana nói, cô bé có đôi mắt đen láy và bím tóc óng ả đã làm tan vỡ trái tim nhiều cậu học trò Avonlea đến nỗi tên cô được viết lên tường hành lang trong khoảng nửa tá cái lưu ý như thế, nói. “Đó chỉ là một trò đùa thôi. Và đừng có quá chắc chắn là tên cậu sẽ không bao giờ bị ghi lên. Charlie Sloan chết mê chết mệt cậu rồi. Cậu ta nói vớ mẹ – mẹ cậu ta đấy nhá – rằng cậu là cô gái thông minh nhất trường. Cái đó còn hay hơn xinh đẹp ấy chứ,”

“Không, chẳng hay ho tí nào,” Anne nói, yểu điệu hết mức. “Mình thà xinh đẹp còn hơn thông minh. Và mình ghét Charlie Sloane. Mình không thể chịu đựng nổi một tên con trai mắt lồi. Nếu ai viết tên mình cạnh tên cậu ta thì mình sẽ không bao giờ bỏ qua đâu, Diana Barry. Nhưng đứng đầu lớp thì thật là tuyệt.”

“Tới đây, cậu sẽ học chung lớp với Gilbert.” Diana nói, “nói cho cậu biết là cậu ấy từng đứng đầu lớp đấy. Cậu ấy mới học sách tập bốn thôi mặc dù gần mười bốn tuổi rồi. Bốn năm trước bố Gilbert bị ốm nên phải chuyển tới Alberta dưỡng bệnh và Gilbert đi cùng ông ấy. Họ ở đó ba năm và Gil hiếm khi đến trường cho tới khi họ trở về. Cậu sẽ không dễ dàng đứng đầu lớp nữa đâu, Anne.”

“Mình rất mừng,” Anne nói nhanh. “Mình không thể thật sự hãnh diện vì đứng đầu một đám nhóc chỉ chín mười tuổi. Hôm qua mình đã tham gia đánh vần từ ‘sục sôi’. Josie Pye đánh vần đầu tiên và, cậu nhớ nhé, cô ta đã liếc trộm sách. Thầy Phillips không nhìn thấy – thầy còn mải ngắm Prissy Andrews – nhưng mình thì thấy. Mình lườm cô ả một nhát sắc như dao và cô ta đỏ mặt như gấc, rốt cuộc cũng đánh vần sai luôn.”

“Lũ con gái nhà Pye đó cứ chơi trò gian lận mãi.” Diana nói giận dữ khi hai con bé leo qua hàng rào đường cái. “Hôm qua Gertie Pye đã đến suối và bỏ chai sữa của nó vào chỗ mình. Cậu có bao giờ làm thế không? Bây giờ mình không thèm nói chuyện với con nhỏ đó nữa.”

Khi thầy Phillips đến cuối lớp nghe bài tiếng Latin của Prissy Andrews, Diana thì thầm với Anne, “Người ngồi bên phải cậu ở dãy ghế bên kia chính là Gilbert Blythe đấy, Anne. Cứ nhìn đi xem cậu có còn nghĩ cậu ấy không đẹp trai nữa không.”

Anne nhìn theo. Con bé có cơ hội tốt để làm vậy, vì Gilbert Blythe quá mải mê vào việc lén ghim bím tóc vàng dài của Ruby Gillis, ngồi ngay trước mặt cậu ta, vào lưng ghế. Cậu ta có dáng người cao, tóc nâu xoăn, đôi mắt hạt dẻ láu cá, miệng luôn nhoẻn một nụ cười chòng ghẹo. Ngay lúc đó Ruby Gillis đứng dậy phát biểu ý kiến; con bé ngã bổ chửng xuống ghế với một tiếng thét nhỏ, tin rằng tóc mình đã bị giật đứt đến tận chân tóc. Mọi con mắt đổ dồn về phía con bé trong lúc thầy Phillips quắc mắt nghiêm khắc đến nỗi Ruby bật khóc. Gillbert đã rút chiếc đinh ghim ra khỏi tầm nhìn và chăm chú theo dõi bài lịch sử với bộ mặt nghiêm chỉnh nhất trần đời, nhưng khi sự xáo động lắng xuống, cậu ta nhìn Anne và nháy mắt với một vẻ hài hước khó tả.

“Mình nghĩ Gilbert Blythe của cậu đẹp trai thật,” Anne thành thực bảo Diana. “Nhưng mình thấy hắn rất trơ tráo. Nháy mắt với một đứa con gái lạ mặt đâu phải là kiểu cách lịch sự.”

Nhưng đến tận chiều hôm sau mọi chuyện mới thật sự bắt đầu.

Thầy Phillips đang ở cuối lớp giảng bài đại số cho Prissy Andrews, số học sinh còn lại thoải mái làm việc riêng, ăn táo xanh, thầm thì, vẽ tranh lên bảng cá nhân, vung vẩy dọc lối đi mấy con dế bị buộc dây. Gillbert Blythe đang cố gắng làm Anne Shirley nhìn mình và thất bại triệt để, vì lúc đó con bé hoàn toàn quên bẵng sự tồn tại của không chỉ Gillbert Blythe mà tất cả học sinh trường Avonlea. Cằm chống lên tay, mắt dán vào ánh xanh trên chỗ Hồ Nước Lấp Lánh nhìn từ cửa sổ phía Tây, con bé đang trôi xa về miền mơ mộng diệu kỳ nào đó và không nghe mà cũng không nhìn thấy gì ngoài những hình ảnh tưởng tượng tuyệt vời của mình.

Gilbert Blythe không quen với việc cố tình lôi kéo sự chú ý của con gái mà lại gặp thất bại. Lẽ ra nó phải nhìn cậu chứ, cái con bé Shirley tóc đỏ với chiếc cằm nhọn nhỏ và đôi mắt to không giống mắt bất cứ cô bé nào trong trường Avonlea.

Gilbert vươn người qua lối đi, túm đuôi bím tóc dài đỏ của Anne kéo ra khoảng một tầm tay rồi nói bằng giọng thầm thì chói tai: “Cà rốt! Cà rốt!”

Vậy là Anne nhìn cậu ta căm hờn!

Con bé không chỉ nhìn suông. Nó bật dậy, bao nhiêu mơ mộng tuyệt vời tiêu tan không thể nào cứu vãn. Con bé ném cho Gilbert một cái nhìn đầy phẫn nộ và từ đôi mắt ấy, những tia lửa giận dữ đã nhanh chóng tắt ngúm trong những giọt nước mắt cũng không kém phần giận dữ.

“Đồ con trai thô lỗ, đáng ghét!” con bé thốt lên thật lực. “Sao mày dám!”

Và rồi – bụp! Anne đập cái bảng của mình lên đầu Gilbert khiến nó gãy làm đôi – cái bảng chứ không phải đầu.

Trường Avonlea lúc nào cũng thích xem mấy màn hay. Và đây đúng là một màn đặc biệt đáng coi. Tất cả mọi người đều “Ồ” lên bằng một giọng thích thú cực độ. Diana há hốc miệng. Ruby Gillis, vốn rất dễ bị khích động, òa khóc. Tommy Sloane để đàn dế của mình bỏ trốn hết trong khi còn đang mải há hốc miệng nhìn hoạt cảnh này.

Thầy Phillips sải bước xuống giữa lớp và đặt mạnh tay lên vai Anne.

“Anne Shirley, thế này nghĩa là sao hả?” ông nói giận dữ.

Anne không trả lời. Đúng là quá đáng khi trông chờ con bé sẽ nói trước cả trường rằng mình bị gọi là “cà rốt”. Gilbert chính là người can đảm lên tiếng trước.

“Là lỗi của con, thưa thầy Phillips. Con đã chọc bạn ấy.”

Thầy Phillips chẳng đoái hoài gì đến Gilbert.

“Ta rất tiếc khi thấy một học sinh của ta lại tỏ ra nóng nảy và hằn học như thế,” ông nói bằng giọng nghiêm trang cứ như thể đã là học sinh của ông thì phải diệt trừ mọi cảm xúc xấu xa khỏi trái tim của những con người trần tục bé nhỏ không hoàn thiện. “Anne, lên trên bục đứng trước bảng đen cho đến hết buổi chiều.”

Anne thích một cây roi hơn hình phạt này nhiều, bị phạt như thế khiến tâm hồn nhạy cảm của con bé run lên như bị roi quất. Con bé thực hiện mệnh lệnh với khuôn mặt trắng bệch, nghiêm trang. Thầy Phillips lấy phấn viết lên bảng phía trên đầu nó: “Anne Shirley vô cùng nóng tính. Anne Shirley phải học cách kiềm chế sự nóng nảy của mình” và rồi đọc lên to đến nỗi ngay cả học sinh lớp một chưa biết đọc cũng có thể hiểu được.

Anne đứng đó cho đến tận cuối buổi chiều, trong đầu chỉ lởn vởn mỗi chuyện này. Con bé không khóc mà cũng không cúi đầu. Cơn giận vẫn bừng bừng trong tim và chính nó đã giúp Anne chống chọi được cảm giác xấu hổ cực độ. Với ánh mắt giận dữ và hai má đỏ gay, con bé đối diện với cái nhìn cảm thông của Diana, cái gật đầu phẫn nộ của Charlie Sloane và nụ cười ma mãnh của Josie Pye. Về phần Gilbert Blythe, con bé thậm chí còn không thèm liếc mắt. Nó sẽ không bao giờ nhìn cậu ta nữa! Nó sẽ không bao giờ nói chuyện với cậu ta nữa!!

Khi buổi học kết thúc, Anne ngẩng cao mái đầu tóc đỏ sải bước ra về. Gilbert Blythe cố gắng bắt kịp nó ở cổng.

“Mình vô cùng xin lỗi đã chế giễu mái tóc của bạn, Anne,” cậu ta thì thầm hối hận. “Mình xin lỗi chân thành mà. Đừng giận nữa nhé.”

Anne cau có lướt qua, không nhìn lại mà cũng chẳng có vẻ gì đã nghe thấy. “Ôi, sao cậu có thể làm vậy được, Anne?” Diana hổn hển nói trong lúc cả hai bước xuống đường, giọng nửa trách móc nửa ngưỡng mộ. Diana cảm thấy mình sẽ không bao giờ cưỡng lại nổi lời năn nỉ của Gilbert.

“Mình sẽ không bao giờ tha thứ cho Gilbert Blythe,” Anne nói kiên quyết. “Và thầy Phillips cũng đánh vần tên mình thiếu chữ e. Một cái gì đó rắn đanh lạnh lẽo đã len lỏi vào tâm hồn mình, Diana.”

Diana không hề ý thức được Anne nói gì nhưng con bé hiểu là có chuyện rất khủng khiếp.

“Cậu không nên để tâm chuyện Gilbert giễu cợt tóc cậu,” con bé xoa dịu. “Sao nào, cậu ấy chọc ghẹo tất cả lũ con gái mà. Cậu ấy cười tóc mình vì nó quá đen. Cậu ấy gọi mình là con quạ cả chục lần rồi; mà trước đây mình chưa bao giờ nghe cậu ấy xin lỗi vì bất cứ chuyện gì.”

“Bị gọi là quạ và bị kêu là cà rốt thì khác nhau nhiều lắm chứ.” Anne nói vẻ kiêu hãnh. “Gilbert Blythe đã làm mình tổn thương một cách vô cùng đau khổ, Diana.”

Có lẽ nếu chẳng có chuyện gì khác xảy ra thì sự cố này đã trôi qua mà không có thêm đau khổ nào nữa. Nhưng một khi đã bắt đầu xảy ra thì mọi chuyện lại cứ thế mà tiếp diễn.

Học trò Avonlea thường dành giờ nghỉ trưa hái quả trong khu rừng vân sam trên ngọn đồi ở phía bên kia cánh đồng cỏ lớn của ông Bell. Từ chỗ đó chúng có thể để mắt đến căn nhà của Eben Wright, nơi thầy giáo chúng thường lui tới. Hễ nhác thấy thầy Phillips từ đó bước ra là chúng sẽ chạy ngay đến trường; nhưng vì khoảng cách đó dài gấp ba lần con đường của ông Wright nên chúng thường về trễ chừng ba phút, thở hổn hển không ra hơi.

Ngày hôm sau thầy Phillips bổng nổi hứng muốn lặp lại kỷ luật và tuyên bố trước khi về nhà ăn trưa rằng khi nào quay lại, ông muốn thấy tất cả học trò đã ngồi sẵn ở ghế. Ai đến trễ sẽ bị phạt.

Tất cả lũ con trai và một vài đứa con gái vẫn ra khu rừng nhỏ của ông Bell như thường lệ, hoàn toàn chỉ định ở đó đủ lâu để “hái một chút”. Nhưng khu rừng quá quyến rũ và những quả vân sam vàng thật hấp dẫn, hái quả xong rồi chúng lại thơ thẩn lang thang; và như thường lệ thứ đầu tiên kéo chúng trở lại với ý thức về thời gian thấm thoát thoi đưa là tiếng hét của Jimmy Glover vọng xuống từ ngọn thông cổ thụ, “Thầy tới”.

Những đứa con gái đang ở trên mặt đất khởi hành đầu tiên và xoay sở về trường vừa kịp giờ, không sớm hơn được giây nào. Lũ con trai, còn phải vội leo trên cây xuống, về muộn hơn; và Anne, không hái gì cả mà vui vẻ lang thang tận cuối rừng, nửa người chìm trong đám dương xỉ, khẽ hát một mình, đầu đội một vòng hoa lưu ly gạo cứ như thể con bé là một vị thần hoang dã nào đó của những chốn tối tăm, là người cuối cùng quay về. Tuy nhiên Anne có thể chạy nhanh như một con hươu; cuộc đua tốc độ đã dẫn đến một kết quả quái quỷ là con bé bắt kịp đám con trai ở cửa và bị đám đông xô đẩy tràn vào lớp đúng lúc thầy Phillips đang treo mũ.

Nỗ lực cải tổ ngắn ngủi của thầy Phillips thế là đi tong; ông không muốn phạt cả tá học sinh; nhưng để giữ lời hứa thì cần phải làm gì đó nên thầy nhìn quanh tìm vật hy sinh và ánh mắt rớt trúng con bé Anne lúc này vừa mới ngồi xuống ghế, hơi thở hổn hển và vòng hoa loa kèn bỏ quên còn lủng lẳng một bên tai, làm cho con bé có một dáng vẻ vừa ngông nghênh vừa nhếch nhác.

“Anne Shirley, vì trò có vẻ rất thích đánh bạn với cánh con trai nên chiều nay chúng ta sẽ chiều theo cái thú đó của trò,” ông nói giọng mỉa mai. “Bỏ hoa ra khỏi tai rồi ngồi xuống cạnh Gilbert Blythe đi.”

Những đứa con trai khác cười khúc khích. Diana, mặt trắng bệch vì thương cảm, kéo vòng hoa ra khỏi tóc Anne và giật giật tay con bé. Anne nhìn chằm chằm vào ông thầy như hóa đá.

“Trò có nghe tôi nói gì không, Anne?” thầy Phillips hỏi nghiêm khắc.

“Có ạ, thưa thầy,” Anne nói chậm rãi, “nhưng con không nghĩ là thầy thực sự có ý đó.”

“Ta đảm bảo với trò là ta có ý đó,” – vẫn với cái nhếch mép mỉa mai mà tất cả lũ trẻ, đặc biệt là Anne, căm ghét. Nó động chạm đến lòng tự ái của bọn chúng. “Làm theo lời ta ngay đi.”

Trong một thoáng trông Anne có vẻ như sẽ không vâng lời. Rồi, nhận ra làm vậy cũng chẳng ích lợi gì, con bé kiêu hãnh đứng dậy, băng qua hai lối đi, ngồi xuống cạnh Gilbert Blythe và vùi mặt vào hai cánh tay để trên bàn. Ruby Gillis, người thấy được đúng khoảnh khắc khuôn mặt gục xuống đó, đã kể với mấy đứa khác trên đường về nhà rằng con bé “thật sự chưa thấy cái gì như vậy – nó quá trắng với những đốm đỏ kinh khiếp bên trên”.

Với Anne, đây dường như dấu chấm hết cho mọi thứ. Bị phạt một mình trong khi cả tá đứa khác cũng phạm tội, như thế cũng đủ tệ rồi; bị bắt ngồi kế một đứa con trai lại càng tệ hơn; nhưng đứa con trai đó mà là Gilbert Blythe thì thật nhục nhã và tổn thương đến mức không chịu nổi. Anne cảm thấy mình không thể chịu đựng được, có cố gắng cũng không nghĩa lý gì. Trong con bé sôi sục cảm giác xấu hổ, giận dữ và nhục nhã.

Lúc đầu những học sinh khác còn nhìn ngó, xầm xì, cười khúc khích và huých tay nhau. Nhưng vì Anne chẳng chịu ngóc đầu lên còn Gilbert thì mải mê làm toán như thể tất cả tâm hồn cậu đều đặt vào đó và chỉ đó mà thôi, nên chúng nhanh chóng quay lại công việc của mình và Anne bị lãng quên. Khi thầy Phillips kết thúc giờ học lịch sử, Anne được phép ra ngoài; nhưng Anne không nhúc nhích, còn thầy Phillips, lúc này đang viết mấy vần thơ “Tặng Priscillia” trước khi tập hợp lớp, thì trầm tư suy nghĩ về một giai điệu nào đó mà mãi ông vẫn không nắm bắt được và không mảy may nhớ đến con bé. Nhân lúc không ai chú ý, Gilbert lấy từ dưới bàn mình ra một cái kẹo nhỏ hình trái tim hồng bên trên có hàng chữ màu vàng “Bạn thật ngọt ngào,” rồi luồn nó xuống dưới tay Anne. Anne lập tức đứng dậy, nhón chiếc kẹo hồng bằng mấy đầu ngón tay, ném nó xuống sàn, dùng gót giày nghiền thành bột, rồi trở lại vị trí cũ mà không thèm hạ cố liếc Gilbert đến một cái.

Khi tan trường, Anne về bàn của mình, hùng hổ lấy ra tất cả mọi thứ trong đó, sách và bảng viết, bút và mực, thánh kinh và sách số học, đặt chúng thành chồng gọn gàng trêm tấm bảng vỡ của mình.

“Cậu mang tất cả những thứ này về nhà làm gì hả Anne?” Diana muốn biết, ngay khi cả hai ra đến đường cái. Con bé mãi không dám hỏi câu đó.

“Mình không trở lại trường nữa,” Anne nói.

Diana há hốc miệng nhìn Anne chằm chằm để xem con bé có nói thật không.

“Liệu bác Marilla có để cậu ở nhà không?” nó hỏi.

“Bác ấy sẽ phải đồng ý,” Anne nói, “Mình sẽ không bao giờ đến trường gặp người đàn ông đó nữa.”

“Ôi, Anne!” Diana trông như thể sắp khóc đến nơi. “Mình nghĩ cậu thật tàn nhẫn. Mình biết làm gì đây? Thầy Phillips sẽ bắt mình ngồi cạnh con nhỏ Gertie Pye kinh khủng đó – mình biết thầy sẽ làm thế vì nó vẫn đang ngồi một mình. Trở lại đi mà, Anne.”

“Mình hầu như có thể làm bất cứ chuyện gì vì cậu, Diana,” Anne nói buồn bã. “Mình sẽ để bản thân bị phanh thây trăm mảnh nếu điều đó tốt cho cậu. Nhưng chuyện này thì mình không thể, nên xin đừng đòi hỏi chuyện đó. Cậu đang giày vò tâm hồn nhỏ bé của mình đấy.”

“Cứ nghĩ về tất cả những chuyện vui mà cậu sẽ bỏ lỡ đi,” Diana van vỉ. “Chúng ta sẽ xây căn nhà mới đáng yêu nhất bên dòng suối, và tuần sau chúng mình sẽ chơi bóng mà cậu lại chưa bao giờ chơi bóng, Anne. Cực kỳ sôi động đấy. Rồi chúng ta sẽ học một bài hát mới – đến giờ Jane Andrews vẫn đang tập hát; tuần sau Alice Andrews sẽ đem đến một quyển sách mới của Pansy và chúng ta sẽ đọc to từng chương bên dòng suối. Mà cậu biết cậu thích đọc truyện thành tiếng thế nào rồi đấy, Anne.”

Không có gì lay chuyển được Anne. Lòng con bé đã quyết. Nó sẽ không đến trường của thầy Phillips nữa; nó nói vậy với bà Marilla khi về đến nhà.

“Nói nhảm,” bà Marilla gạt đi.

“Không nhảm chút nào,” Anne nói, nhìn thẳng vào Marilla với đôi mắt nghiêm trang, đầy trách cứ. “Bác không hiểu sao, bác Marilla? Con đã bị sỉ nhục.”

“Sỉ nhục cái gì chứ! Ngày mai con sẽ đến trường như thường lệ.”

“Ôi, không.” Anne lắc đầu nhẹ nhàng. “Con sẽ không trở lại đâu, bác Marilla. Con sẽ học bài ở nhà, sẽ ngoan ngoãn hết mức và sẽ hoàn toàn im lặng nếu cần. Nhưng con sẽ không trở lại trường đâu, con bảo đảm với bác như vậy.”

Bà Marilla nhìn thấy điều gì đó tựa như một sự bướng bỉnh không khoan nhượng toát ra từ khuôn mặt nhỏ bé của Anne. Bà hiểu sẽ không dễ gì đánh bại được sự bướng bỉnh đó; nhưng ngay lúc này bà sáng suốt xử trí bằng cách không nói thêm gì nữa. “Tối nay mình sẽ chạy xuống hỏi ý kiến Rachel,” bà nghĩ. “Lý luận với Anne bây giờ chẳng có nghĩa lý gì. Con bé kích động quá và mình biết một khi đã muốn thì nó sẽ cứng đầu vô cùng. Theo mình phân tích được qua lời kể của con bé thầy Phillips giải quyết chuyện này hơi cực đoan. Nhưng mình không bao giờ được nói thế với nó. Mình chỉ cần qua nói chuyện với Rachel thôi. Chị ấy đã cho mười đứa con đến trường và chắc hẳn phải biết gì đó về chuyện này. Đến giờ này thì chắc chị ấy cũng đã nghe được toàn bộ câu chuyện rồi.”

Bà Marilla thấy bà Lynde đang ngồi đan len một cách cần cù và vui vẻ như mọi khi.

“Chắc chị biết tôi đến vì chuyện gì rồi,” bà nói, hơi đỏ mặt.

Bà Rachel gật đầu.

“Vì vụ lùm xùm của Anne ở trường, tôi nghĩ vậy,” bà nói, “Trên đường đi học về, Tillie Boulter đã ghé vào kể cho tôi nghe chuyện đó.”

“Tôi không biết phải làm gì với con bé,” bà Marilla nói. “Nó tuyên bố sẽ không quay lại trường nữa. Tôi chưa từng thấy đứa trẻ nào khích động như vậy. Từ khi con bé đến trường tôi đã biết thể nào rồi cũng có rắc rối mà. Tôi đã biết là mọi chuyện diễn tiến quá suôn sẻ đến mức chẳng thể nào kéo dài mãi được. Con bé nhạy cảm quá. Lời khuyên của chị là gì, Rachel?”

“Được rồi, vì cô đã hỏi ý kiến của tôi, Marilla.” Bà Lynde nói giọng thân tình – Bà Lynde rất thích được hỏi ý kiến – “Trước mắt tôi sẽ phiên phiến cho nó một chút, tôi sẽ làm như vậy. Tôi tin là thầy Phillips sai rồi. Dĩ nhiên, cô cũng biết là không được nói vậy với đám trẻ. Dĩ nhiên hôm qua ông ấy đúng khi phạt con bé vì tội nổi nóng. Nhưng hôm nay thì khác. Mấy đứa khác bị trễ lẽ ra cũng phải chịu phạt như Anne, vậy đó. Và tôi không tán thành chuyện phạt lũ trẻ bằng cách cho con gái ngồi kế con trai. Không đúng đắn chút nào. Tillie Boulter thật sự giận dữ. Con bé hoàn toàn đứng về phía Anne và nói tất cả học sinh khác cũng vậy. Anne có vẻ ảnh hưởng rất lớn tới chúng theo một kiểu nào đó. Tôi chưa bao giờ nghĩ con bé có thể hòa nhập tốt vậy.”

“Vậy chị thật sự nghĩ tôi nên để nó ở nhà à?” bà Marilla nói giọng ngạc nhiên.

“Ừ. Tôi sẽ không nói chuyện trường học với nó nữa cho tới khi nó tự nhắc đến. Cứ vậy đi, Marilla, chỉ cần trên dưới một tuần là con bé sẽ nguội xuống rồi sẵn sàng tự nguyện quay trở lại, vậy đó, còn nếu cô bắt nó đến trường ngay, có trời mới biết con bé sẽ nổi điên nổi khùng lên thế nào nữa và làm mọi chuyện càng rắc rối thêm thôi. Thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện, ý tôi là vậy. Thật ra con bé sẽ không bỏ lỡ quá nhiều thứ nếu không đến trường đâu. Thầy Phillips cũng chẳng phải thầy giáo tốt. Cái kiểu ưu tiên của ông ta gây nhiều gièm pha rồi, ông ta bỏ bê đám nhỏ để đổ hết thời gian vào mấy học trò lớn mà ông ta định cho vào trường Queen. Ông ta sẽ chẳng thể dạy với dỗ thêm năm nào được nếu chú ông ta không phải ủy viên ban quản trị – ủy viên duy nhất, chỉ vì ông chú đó dắt mũi được hai người còn lại, vậy đấy. Tôi dám nói rằng chẳng biết nền giáo dục trên cái đảo này rồi sẽ trôi về đâu.”

Bà Rachel lắc đầu quầy quậy như muốn nói nếu bà là người duy nhất đứng đầu hệ thống giáo dục của tỉnh thì mọi vấn đề chắc hẳn sẽ được điều hành tốt hơn.

Bà Marilla nghe theo lời khuyên của bà Rachel bà không nói thêm lời nào với Anne về chuyện trở lại trường nữa. Con bé học bài ở nhà, làm việc vặt, chơi với Diana trong ánh chạng vạng đỏ tía của mùa thu giá lạnh; nhưng khi gặp Gilbert Blythe trên đường hay chạm mặt trong trường học Chủ nhật, nó đi lướt qua cậu ta với vẻ khinh bỉ lạnh lùng không hề lay chuyển bất chấp mong muốn xoa dịu hiển nhiên của thằng bé. Kể cả những nổ lực hòa giải của Diana cũng vô hiệu. Anne rõ ràng đã quyết tâm căm ghét Gilbert Blythe đến tận cuối đời.

Tuy nhên, càng ghét Gilbert thì con bé càng yêu Diana, với tất cả tình yêu từ trái tim bé nhỏ nồng nàn vốn yêu ghét đều mãnh liệt như nhau của nó. Một tối, khi bà Marilla mang một giỏ táo từ vườn vào nhà thì thấy Anne đang ngồi bên cửa sổ phía Đông, khóc nức nở trong ánh chiều tà.

“Giờ thì chuyện gì nữa đây, Anne?” bà hỏi.

“Đó là vì Diana” Anne nức nở như mưa rào giữa hạ. “Con yêu Diana quá, bác Marilla. Con không thể sống thiếu bạn ấy. Nhưng con biết rất rõ là khi chúng con lớn lên Diana sẽ lấy chồng rồi bỏ con mà đi. Ôi, côn phải làm gì đây? Con ghét chồng bạn ấy – con ghét tên đó khủng khiếp. Con đã tưởng tượng hết mọi chuyện – đám cưới và mọi thứ – Diana mặc váy trắng như tuyết, đeo mạng che mặt, trông xinh đẹp lộng lấy như một bà hoàng; còn con làm phù dâu, mặc một chiếc váy tay phồng cũng rất đáng yêu, có tay phồng nhưng ẩn dưới khuôn mặt tươi cười là một trái tim tan vỡ. Và rồi Diana buộc phải tạm biệt…t…t…t…” Đến đây Anne suy sụp hoàn toàn và khóc lóc thảm thiết với nỗi đan khổ càng lúc càng tăng.

Bà Marilla vội quay đi chỗ khác hòng giấu khuôn mặt đang co rúm lại của mình; nhưng chẳng ích gì; bà đổ sụp xuống chiếc ghế gần nhất và vỡ òa ra trong một trận cười ngặt nghẽo bất thường đến nỗi ông Matthew, đang ở tận phía bên kia sân, cũng phải dừng lại ngạc nhiên. Đã bao giờ ông nghe thấy bà Marilla cười thế chưa?

“Được rồi, Anne Shirley,” Marilla nói ngay khi có thể mở miệng được, “nếu con muốn rước phiền vào thân thì vì Chúa con cứ việc rước. Ta phải thấy là con có trí tưởng tượng đấy, chắc chắn rồi.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.